Dầu ảnh hưởng đến môi trường như thế nào?
Dầu thô được sử dụng để tạo ra các sản phẩm dầu mỏ mà chúng ta sử dụng để cung cấp nhiên liệu cho máy bay, ô tô và xe tải; để sưởi ấm nhà cửa; và để sản xuất các sản phẩm như thuốc và nhựa. Mặc dù các sản phẩm dầu mỏ làm cho cuộc sống dễ dàng hơn nhưng việc tìm kiếm, sản xuất và vận chuyển dầu thô có thể gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường. Những tiến bộ công nghệ trong thăm dò, sản xuất và vận chuyển dầu cũng như việc thực thi các luật và quy định về an toàn và môi trường giúp tránh và giảm thiểu những tác động này.
Công nghệ giúp giảm tác động của việc khoan và sản xuất dầu
Thăm dò và khoan dầu có thể làm xáo trộn hệ sinh thái đất và biển. Các kỹ thuật địa chấn được sử dụng để thăm dò dầu dưới đáy đại dương có thể gây hại cho cá và động vật có vú ở biển. Khoan giếng dầu trên đất liền thường đòi hỏi phải dọn sạch một vùng thực vật. Tuy nhiên, các công nghệ làm tăng đáng kể hiệu quả của các hoạt động thăm dò và khoan cũng làm giảm tác động đối với môi trường. Vệ tinh, hệ thống định vị toàn cầu, thiết bị viễn thám và công nghệ địa chấn 3-D và 4-D giúp khám phá trữ lượng dầu trong khi khoan ít giếng thăm dò hơn. Slimhole di động và nhỏ hơngiàn khoan làm giảm quy mô khu vực mà hoạt động khoan ảnh hưởng. Việc sử dụng phương pháp khoan ngang và khoan định hướng giúp một giếng duy nhất có thể sản xuất dầu từ một khu vực rộng lớn hơn nhiều, giúp giảm số lượng giếng cần thiết để phát triển tài nguyên dầu.
Bẻ gãy thủy lực
Một kỹ thuật sản xuất dầu được gọi là bẻ gãy thủy lực, hoặc fracking , được sử dụng để sản xuất dầu từ đá phiến sét và các thành tạo địa chất chặt chẽ khác . Kỹ thuật này đã cho phép Hoa Kỳ tăng đáng kể sản lượng dầu trong nước và giảm nhập khẩu dầu của Hoa Kỳ. Phá vỡ thủy lực có một số ảnh hưởng đến môi trường. Phá vỡ đá đòi hỏi một lượng lớn nước và nó sử dụng các hóa chất nguy hiểm tiềm ẩn để giải phóng dầu khỏi tầng đá. Ở một số khu vực của đất nước, việc sử dụng nước đáng kể để sản xuất dầu có thể ảnh hưởng đến nguồn nước sẵn có cho các mục đích sử dụng khác và có khả năng ảnh hưởng đến môi trường sống dưới nước. Việc xây dựng giếng không đúng cách hoặc xử lý không đúng cách có thể dẫn đến rò rỉ và tràn chất lỏng nứt gãy.
Quá trình bẻ gãy thủy lực cũng tạo ra một lượng lớn nước thải có thể chứa các hóa chất hòa tan và các chất gây ô nhiễm khác, có thể cần xử lý trước khi thải bỏ hoặc tái sử dụng. Do lượng nước được sử dụng và sự phức tạp của việc xử lý một số thành phần nước thải nên việc xử lý và tiêu hủy là những vấn đề quan trọng và đầy thách thức. Nước thải thường được xử lý bằng cách bơm vào các giếng sâu, điển hình là vào các tầng chứa nước mặn. Việc bơm nước thải có thể gây ra động đất có thể gây ra thiệt hại và đủ lớn để có thể cảm nhận được.
Sự cố tràn dầu
Hầu hết các sự cố tràn dầu là kết quả của tai nạn tại giếng dầu hoặc trên đường ống, tàu, xe lửa và xe tải vận chuyển dầu từ giếng đến nhà máy lọc dầu. Tràn dầu làm ô nhiễm đất và nước và có thể gây ra các vụ nổ và hỏa hoạn nghiêm trọng. Chính phủ liên bang và ngành công nghiệp đang phát triển các tiêu chuẩn, quy định và thủ tục để giảm khả năng xảy ra tai nạn và sự cố tràn và dọn sạch sự cố tràn khi chúng xảy ra.
Sau sự cố tràn dầu Exxon Valdez ở Prince William Sound, Alaska, vào năm 1989, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Ô nhiễm Dầu năm 1990, yêu cầu tất cả các tàu chở dầu mới được đóng để sử dụng giữa các cảng của Hoa Kỳ phải có thân kép hoàn chỉnh. Năm 1992,Tổ chức Hàng Hải Quốc tế cũng đã thiết lập các tiêu chuẩn thân kép cho tàu chở dầu mới trong Công ước Quốc tế về Ngăn ngừa Ô nhiễm từ Tàu (MARPOL). Lượng dầu tràn ra từ các con tàu đã giảm đáng kể trong những năm 1990 một phần là do các tiêu chuẩn thân tàu kép này.
Vụ nổ giàn khoan Deep Horizon và sự cố tràn dầu ở Vịnh Mexico năm 2010 đã khiến chính phủ Hoa Kỳ và ngành công nghiệp dầu mỏ xem xét lại các công nghệ, quy trình và quy định về khoan để giảm khả năng xảy ra các tai nạn tương tự. Chính phủ Hoa Kỳ cũng thay thế Cơ quan Quản lý Khoáng sản (MMS), cơ quan quản lý các hợp đồng cho thuê dầu và khí tự nhiên ngoài khơi, bằng Cục Quản lý Năng lương Đại dương ( BOEM) và Cục An toàn và Thực thi Môi trường ( BSEE) để cung cấp giám sát và thực thi hiệu quả hơn các quy định về môi trường đối với phát triển năng lượng ngoài khơi.
Phục hồi các vị trí giếng cũ và tạo rạn nhân tạo
Khi các giếng dầu và khí đốt trở nên cạn kiệt, chúng bắt buộc phải bỏ đi theo các quy định hiện hành của từng khu vực. Quy trình này được thiết kế để niêm phong đúng cách, tạo đá dưới bề mặt và khắc phục (khôi phục) các vị trí giếng về tình trạng ban đầu. Các giếng không được bịt kín đúng cách và bị bỏ hoang có thể vẫn là mối nguy hiểm có thể xảy ra, có khả năng làm rò rỉ chất lỏng và khí và cản trở sự phát triển bề mặt trong tương lai.
Một số giàn khoan dầu ngoài khơi cũ bị lật đổ và để lại dưới đáy biển trong chương trình “ Chuyên giàn khoan sang rạn san hô” . Trong vòng một năm sau khi giàn khoan bị lật đổ, hà, san hô, bọt biển, nghêu và các sinh vật biển khác bao phủ giàn khoan. Những rạn san hô nhân tạo này thu hút cá và các sinh vật biển khác, đồng thời làm tăng quần thể cá cũng như các cơ hội câu cá và lặn giải trí.